gian lận thuế TNDN
Các hành vi trốn thuế, gian lận thuế TNDN được thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Tuy nhiên về bản chất, hầu hết các cách thức gian lận, trốn thuế thu nhập này có điểm chung là đều dựa trên nguyên tắc giảm tối đa thu nhập chịu thuế so với thu nhập thực tế thông qua làm giảm doanh thu hoặc tăng chi phí hoặc cả hai khi thực hiện kê khai thuế.
Các hình thức gian lận thuế được tô vẽ và ẩn giấu dưới nhiều hình thức, tuy nhiên tổng hợp lại chủ yếu ở các nhóm hành vi sau: Nhóm hành vi trốn thuế, gian lận thuế liên quan đến việc nộp hồ sơ đăng ký thuế, hồ sơ khai thuế; nhóm hành vi trốn thuế, gian lận thuế liên quan đến việc sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn bất hợp pháp; nhóm các hành vi liên quan đến việc ghi chép sai lệch, không đầy đủ, chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh từ sổ kế toán…
Doanh nghiệp “ma” là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế không sản xuất kinh doanh, chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá đơn, từ đó bán hóa đơn cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế. Mức độ thiệt hại do những hoá đơn trôi nổi này gây ra rất khó kiểm soát, hoàn toàn phụ thuộc vào số chi phí đầu vào cần hợp thức hoá của doanh nghiệp mua bán hoá đơn. Dẫn lại báo cáo đánh giá phân tích tài chính của doanh nghiệp dân doanh năm 2019 và 3 tháng đầu năm 2020 gửi Thủ tướng, Bộ Tài chính cho biết một số vấn đề bất cập trong hoạt động của doanh nghiệp dân doanh sau đăng ký thành lập. Trong năm 2019, toàn quốc có hơn 77 nghìn doanh nghiệp dân doanh chấm dứt hoạt động. Theo đó, số lượng doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký là gần 50 nghìn doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 64,61%. Các doanh nghiệp này thường có hành vi vi phạm là không khai thuế, không quyết toán thuế, không quyết toán hóa đơn, còn nợ thuế, doanh nghiệp “ma” ra đời nhằm mục đích mua bán hóa đơn trục lợi tiền thuế; doanh nghiệp ảo nhưng buôn lậu thật. Sau khi cơ quan thuế ban hành thông báo về việc doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, doanh nghiệp làm thủ tục thay đổi thông tin đăng ký doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh, đăng ký tạm ngừng hoạt động, hoặc cá nhân là đại diện pháp luật của doanh nghiệp này tiếp tục thành lập doanh nghiệp mới.
Tình trạng này xảy ra chủ yếu do quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam còn nhiều kẽ hở. Khoản 2, Điều 17 của Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định cụ thể 7 nhóm đối tượng không có quyền thành lập và điều hành doanh nghiệp nhưng trong Điều 19 đến Điều 23 về hồ sơ đăng ký kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp lại không đòi hỏi những điều kiện gì để chứng minh người đăng ký kinh doanh không thuộc 7 nhóm đối tượng trên. Như vậy, sơ hở đầu tiên của thủ tục lập doanh nghiệp là không có quy định về “bộ lọc”, hay nói cách khác là không có kiểm tra nhân thân người đứng tên lập doanh nghiệp, người đại diện pháp luật, giám đốc điều hành doanh nghiệp. Trong thực tế, khai thác được sơ hở ấy, những kẻ có ý định lừa đảo hay làm ăn gian dối đã mướn những tên tội phạm, những người tâm thần, người đang ở tù, người nghiện ma tuý v.v… để đứng tên lập doanh nghiệp, đứng tên làm giám đốc, làm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Khi sự việc vỡ lở, cơ quan pháp luật không tìm được những người này, hoặc có đưa họ ra toà cũng khó xử được vì theo pháp luật họ là những người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22, 24 Bộ Luật Dân sự 2015).
Nhất là các doanh nghiệp được hưởng chiết khấu do mua hàng với số lượng lớn; giá vốn sai còn do xác định giá trị sản phẩm dở dang, cũng như giá trị hàng tồn kho không đúng. Có doanh nghiệp vừa và nhỏ trên bảng xuất – nhập – tồn thời điểm cuối năm (ngày 31/12) không có hàng tồn kho nhưng vẫn xuất bán hàng hóa. Một số doanh nghiệp không đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ (kể cả giá trị xây lắp), không phân bổ chi phí thu mua cho hàng tồn kho, chi phí công cụ, dụng cụ mà kết chuyển hết vào chi phí trong kỳ, nhằm tối đa giá vốn.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, giá vốn còn được nâng lên qua thủ thuật xây dựng định mức vật tư cho một đơn vị sản phẩm cao hơn thực tế, nhằm làm tăng chi phí nguyên vật liệu, hoặc không xây dựng định mức vật tư hạch toán chi phí tiêu hao nguyên vật liệu cho sản xuất vượt định mức do lợi dụng những ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tự xây dựng và quyết toán định mức, vì hiện nay chỉ một vài ngành là có định mức sản xuất như: Xây dựng, cầu đường, xăng dầu, dệt may… còn lại phần lớn chưa có định mức chung. Việc gian lận về giá nguyên vật liệu “kín đáo” hơn khi doanh nghiệp vừa và nhỏ thỏa thuận với nhà cung cấp nâng báo giá nguyên vật liệu đầu vào (hóa đơn đúng như báo giá); trong khi đó nguyên liệu cùng loại có giá thị trường thấp hơn nhiều.
Sai mức khấu hao, sai tỷ lệ khấu hao; có DNNVV lách bằng cách tính khấu hao theo tháng chứ không theo ngày, hoặc DNNVV lỗ vẫn trích khấu hao nhanh; trích khấu hao nhanh không đúng loại tài sản và tính chất, trích khấu hao của tài sản không có giấy tờ sở hữu của DNNVV (tài sản thuê, mượn). Có DNNVV vẫn trích khấu hao xe ô tô cả phần nguyên giá vượt giá trị 1,6 tỷ đồng.
Chi phí tiền lương không có đủ hồ sơ theo quy định hoặc hồ sơ lao động giả: DNNVV chỉ cần đăng tin tuyển dụng với mức thu nhập hấp dẫn để hàng trăm lao động nộp hồ sơ ứng tuyển, sau đó vờ đánh trượt hoặc không tuyển nửa và không trả lại hồ sơ. Thế là trong bảng lương của DNNVV có một danh sách chi trả lương “ảo”. DNNVV mặc sức điều tiết quỹ lương vào chi phí và giá vốn, chi phí quản lý DN. Hơn nữa, chi phí lương ảo còn khó phát hiện hơn, khi hợp đồng lao động chủ yếu là người trong gia đình, mặc dù không tham gia kinh doanh. DNNVV tự đẩy chi phí tiền lương trả cho người lao động cao hơn rất nhiều so với thực trả cho người lao động.
Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát để được hạch toán chi phí thù lao vào tiền lương làm tăng chi phí.
Ô tô, điện thoại, xăng xe, ăn uống… cũng khiến cho cơ quan thuế khó xác định, phân biệt bóc tách.
Các DNNVV có hành vi gian lận chi phí tài chính (lãi vay) không đúng quy định, hạch toán chi phí lãi vay góp vốn điều lệ công ty (ở các công ty góp vốn); hạch toán chi phí lãi vay vượt tỷ lệ khống chế 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố; hạch toán chi phí lãi vay không phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN; hạch toán chi phí lãi vay trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản; hình thành tài sản cố định vào chi phí; hạch toán chi phí lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản phải thu, các khoản mục tiền tệ có nguồn gốc ngoại tệ vào chi phí hoạt động tài chính không đúng quy định.
Việc xử dụng sai mục đích vốn vay cũng được nhiều chủ DNNVV tư nhân sử dụng khi vay ngân hàng để tiêu dùng cá nhân (mua nhà, mua xe, đầu tư cổ phiếu…), nhưng vẫn hạch toán lãi vay vào chi phí hợp lý, hợp lệ.
Hạch toán vào chi phí tiền nghỉ mát, tiền thưởng tết âm lịch và các ngày lễ khác không ghi trong Hợp đồng lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể.
DNNVV cũng “lách” bằng cách hạch toán các khoản thuế truy thu và tiền phạt hành chính vào chi phí; kê khai thiếu các khoản thu nhập khác được thưởng, khoản hỗ trợ của hãng hoặc của các đối tác, khách hàng thường xuyên.
DNNVV hạch toán và phân bổ chi phí dài hạn không đúng qui định; Kiểm tra các DNNVV này cho thấy có những công cụ, dụng cụ có giá trị lớn, có công dụng sử dụng ít nhất là 2, 3 năm nhưng DNNVV vẫn đưa toàn bộ một lần vào chi phí thông qua Tài khoản chi phí trả trước ngắn hạn. Đồng thời, các khoản trích trước lớn như chi phí bảo hành, chi phí sửa chữa tài sản cố định không chi hết hoặc thực tế sau này không chi, DNNVV vẫn không hoàn nhập làm tăng thu nhập khác để tính thuế TNDN.
các khoản dự phòng về nợ khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng đầu tư tài chính; trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi; dự phòng bảo hành sản phẩm không đúng quy định. Đây là hành vi gian lận ở mức độ tinh vi. Có DNNVV trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi nhưng không có Biên bản đối chiếu công nợ, không có công văn đòi nợ, hoặc gian lận tuổi nợ đễ được trích lập 100% dự phòng nợ phải thu khó đòi vào chi phí. Có những doanh nghiệp không có thu nhập (lỗ) vẫn tiến hành trích lập các khoản dự phòng nói trên không đúng quy định.
Không kê khai hàng hóa dịch vụ mua vào, đồng thời cũng không kê khai doanh thu. Hành vi này rất khó phát hiện, vì ngay cả thông qua xác minh hóa đơn, xác suất phát hiện của cơ quan thuế cũng rất thấp. Giảm trừ doanh thu thông qua các hình thức giảm giá, chiết khấu không đúng quy định. DNNVV mặc sức khuyến mại, giảm giá sản phẩm mà không cần đăng ký với Sở Công thương mà vẫn đương nhiên giảm trừ doanh thu bán hàng. Trong xây dựng, kinh doanh bất động sản, có DNNVV chỉ kê khai thuế TNDN tạm nộp 2% trên doanh thu mà không tạm nộp thuế TNDN theo phương pháp doanh thu trừ chi phí (thuế suất 22%) khi đã xác định được chi phí tương ứng với doanh thu trong xây dựng, kinh doanh bất động sản.
Tiền thanh lý tài sản cố định; phế liệu; phế phẩm; nợ phải trả nhưng không xác định được chủ nợ; thu tiền phạt vi phạm hợp đồng cũng bị DNNVV lờ đi, không hạch toán vào thu nhập khác, qua kiểm tra sổ chi tiết tài khoản tiền mặt (TK 111) và tiền gửi ngân hàng (TK 112) cơ quan thuế phát hiện ra việc phát sinh tăng tiền của các khoản này. Ở mẫu Tờ khai tự quyết toán thuế TNDN năm DNNVV đã “thao tác” điều chỉnh tăng, giảm thu nhập chịu thuế thiếu cơ sở; có DNNVV thậm chí còn đưa khoản thuế truy thu và phạt của kỳ thanh tra trước vào điều chỉnh giảm thu nhập chịu thuế của kỳ này sai quy định, hoặc đưa vào các khoản phạt, vi phạm hợp đồng vào các chỉ tiêu này, làm giảm đáng kể số thuế phải nộp.
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản. Hình thức chuyển giá phổ biến của nhiều công ty đa quốc gia là đặt công ty mẹ ở quốc gia, vùng lãnh thổ có mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp, rồi mua bán hàng hóa, dịch vụ, nguyên liệu đầu vào với công ty con tại Việt Nam với giá cao. Giá nguyên liệu đầu vào cao, không ít doanh nghiệp còn tìm mọi cách khai tăng các chi phí khác (chi phí quảng cáo, khuyến mại) để “không có lãi nộp thuế” tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thường khai giá chi phí đầu vào cao bất thường. Như Coca Cola khai giá hương liệu đầu vào nhập từ công ty mẹ cao hơn so với nguyên liệu của công ty giải khát trong nước, đẩy mạnh các chi phí quảng cáo…nên gần 20 năm qua doanh nghiệp này luôn báo lỗ. Tháng 2/2021, Tổng cục Thuế cũng đã bác khiếu nại của doanh nghiệp này và yêu cầu chấp hành quyết định xử phạt hành chính về thuế qua thanh tra chấp hành pháp luật thuế với số tiền hơn 821 tỷ đồng do vi phạm khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp.
Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thường tăng chi phí bằng cách quảng cáo, khuyến mại và tận dụng việc này để tuyên truyền quảng cáo cho cả công ty mẹ, để “tiêu” hết lợi nhuận, không phải nộp thuế.
Những hành động gian lận thuế tuy mang lại lợi ích trước mắt cho doanh nghiệp, không phải nộp thuế ngay tại thời điểm nộp tờ khai thuế. Tuy nhiên lại tiềm ẩn rủi ro về thuế to lớn sau này. Số liệu thống kê tiền thuế truy thu và phạt do doanh nghiệp khai thiếu thuế trong các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế cho thấy việc phát hiện gian lận thuế TNDN ngày càng minh bạch.
=> Xem thêm:
Để khắc phục tình trạng gia tăng các hành vi trốn thuế, gian lận thuế TNDN hiện nay, cơ quan quản lý thuế tăng cường rà soát,kiểm tra và ngày càng ra những chính sách thắt chặt như:
– Tăng cường rà soát, nắm chắc đối tượng, nguồn thu ngân sách trên địa bàn; quản lý chặt chẽ công tác hoàn thuế, cũng như phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thu, cơ quan tài chính và các lực lượng chức năng trong công tác quản lý thu, chống thất thu và xử lý nợ đọng, chống gian lận thương mại, chống buôn lậu, chống chuyển giá.
– Hoàn thiện chính sách thuế nói chung và các văn bản pháp luật về thuế nói riêng, đảm bảo có được hệ thống thuế thống nhất, phù hợp, đáp ứng yêu cầu về nguồn thu ngân sách; quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với khả năng đóng góp của các chủ thể trong nền kinh tế vừa thúc đẩy sản xuất, kinh doanh tăng trưởng, tăng thu nhập của dân cư. Cần nghiên cứu, khảo sát thực tế hệ thống thuế trong và ngoài nước nhiều hơn nữa để xây dựng được hệ thống thuế đạt yêu cầu: Công bằng, rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý thuế và đối tượng nộp thuế.
– Xây dựng Luật Kế toán thuế riêng và cụ thể hóa các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để hạch toán thuế, nghiệp vụ được miễn giảm thuế, nghiệp vụ khấu trừ giá trị thuế giá trị gia tăng và quy định chi tiết các loại hàng hóa dịch vụ được tính thuế, khấu trừ thuế, hạch toán thuế để các kế toán khi hạch toán không hiểu nhầm, không hạch toán sai, đổ lỗi không hiểu biết…
– Áp dụng hóa đơn điện tử trên toàn quốc theo Nghị định 119/2018/NĐ-CP của Chính phủ để chấm dứt tình trạng mua bán trái phép hóa đơn.
– Đẩy mạnh thực hiện việc chi tiêu, thanh toán qua tài khoản ngân hàng hoặc kho bạc, tiến tới không sử dụng tiền mặt thanh toán cho việc mua bán hàng hóa. Ban hành quy chế thanh toán giữa các doanh nghiệp qua ngân hàng để ngân hàng và cơ quan thuế phối hợp với nhau trong việc kiểm soát nguồn gốc các hoạt động thanh toán qua các hệ thống của ngân hàng.
– Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế một cách đồng bộ, toàn diện. Xây dựng chuyên đề thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp có rủi ro cao về trốn thuế, gian lận thuế. Theo đó, đối tượng thanh tra, kiểm tra tập trung vào các doanh nghiệp có giao dịch liên kết, có dấu hiệu chuyển giá; kinh doanh thương mại điện tử; doanh nghiệp báo lỗ triền miên; doanh nghiệp có số nợ thuế lớn; doanh nghiệp nhiều năm chưa được thanh tra, kiểm tra (về sử dụng hóa đơn, chứng từ bất hợp pháp, ưu đãi thuế, chuyển nhượng vốn, thương hiệu…); doanh nghiệp được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế, hoàn thuế… Các lĩnh vực thanh tra tập trung vào: Chuyển nhượng vốn, ngân hàng, dược phẩm, bất động sản, điện, dầu khí, bưu chính viễn thông, khoáng sản.
– Các cơ quan quản lý tăng cường kiểm tra sau cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tổ chức rà soát các hồ sơ khai thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, nhất là doanh nghiệp có đại diện pháp lý là người địa phương khác; doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có rủi ro như khai thác đất đá, cát sỏi, khoáng sản để hạn chế các hình thức trốn thuế thông qua thành lập doanh nghiệp “ma” nhằm mua bán hóa đơn bất hợp pháp.
– Tăng cường thu thập thông tin liên quan đến trốn thuế, gian lận thuế từ nguồn đơn thư tố cáo, từ các cơ quan truyền thông, từ các cơ quan quản lý Nhà nước khác như: Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước và phối hợp với các cơ quan này xây dựng, đề xuất Chính phủ cơ sở pháp lý đủ mạnh để giải quyết các vấn đề chuyển giá của các tập đoàn đa quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, các tập đoàn đa quốc gia phát triển theo những giá trị riêng biệt và có những biến động khó lường, khác biệt với hoạt động kinh doanh giữa các bên độc lập. Qua đó, đảm bảo việc xác định giá chuyển nhượng phù hợp với nơi giá trị được tạo lập và hoạt động kinh tế phải được đánh thuế tại nơi mà nó diễn ra hoạt động thực chất.
– Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của công chức, viên chức để kịp thời phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật, vụ lợi trong khi thi hành công vụ; tăng cường biện pháp phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động công vụ.
– Tăng cường hợp tác, hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển lợi nhuận bởi các biện pháp đơn phương và song phương không khả thi do số lượng các công ty đa quốc gia ngày càng tăng, quy mô lớn và giao dịch phức tạp; cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
=> Xem thêm:
Vì thế doanh nghiệp cần hiểu rõ bản chất của thuế TNDN tránh những rủi ro như truy thu cộng nộp phạt số tiền lớn hơn rất nhiều lần, nặng hơn là đối mặt với tình tiết trốn thuế với số tiền lớn.
Tham khảo dịch vụ tư vấn kế toán thuế Taca:
Taca Business Consulting,
Trụ sở chính: Tầng 2 tòa A Chelsea Residences, số 48 Trần Kim Xuyến, Q. Cầu Giấy, TP. Hà Nội
Hotline: 0982 518 586
Support@taca.edu.vn
Vincom Đồng Khởi, Quận 1, TP. HCM
Hotline: 0985 611 911